Các thủ thuật cơ bản trị bệnh trong Tác động cột sống
CÁC THỦ THUẬT TRỊ BỆNH
Căn cứ vào các nguyên tắc trị bệnh của Phương pháp Tác động cột sống để giải tỏa hình thái của trọng điểm, yêu cầu của các thủ thuật là:
1) Tạo cho các đốt sống bị dính cứng chuyển động được.
2) Tạo cho trọng điểm có một cảm giác đau thích hợp để giải tỏa các hình thái của trọng điểm.
Do hai yêu cầu trên đây đã hình thành các thủ thuật trị bệnh.
1. Thủ thuật ĐẨY.
2. Thủ thuật XOAY.
3. Thủ thuật BẬT.
4. Thủ thuật RUNG.
5. Thủ thuật BỈ.
6. Thủ thuật LÁCH.
Sau đây là phần chi tiết của từng thủ thuật.
II.1 THỦ THUẬT ĐẨY
A. Đại cương: Thủ thuật ĐẨY ứng dụng phương thức NÉN, phối hợp với thủ thuật XOAY và BỈ trong phương thức SÓNG để giải tỏa lớp cơ bệnh lí, tạo cho đốt sống bị dính cứng chuyển động được theo yêu cầu của thầy thuốc.
B. Hình thức: Theo nguyên tắc định lực cho 9 vùng đã quy định của Phương pháp Tác động cột sống, tùy theo vị trí khu trú của trọng điểm mà ứng dụng lực của ngón tay cái hay hai ngón tay, hoặc dận của bàn tay đặt tĩnh tại trọng điểm để thao tác với lực nén từ nhẹ đến nặng.
Dù cho đốt sống bị dính cứng nhiều cũng không được dùng quá lực đã quy định.
C. Thao tác: – Khi thao tác chú ý đẩy từ ngoài vào trong theo hướng trục.
-Tùy theo vị trí khu trú của trọng điểm mà chọn tư thế cho bệnh nhân: nằm xấp, chống tay trên điểm tỳ để oằn lưng hoặc ngồi gục để thao tác…
Các tư thế này đều tạo cho gân cơ của người bệnh buông trùng, thích hợp cho sự tiếp nhận lực thao tác.
D. Thủ thuật: Thủ thuật ĐẨY ứng dụng trong phương thức NÉN và phương thức SÓNG:
1- Phương thức NÉN
– NÉN TĨNH:
Tư thế: Người bệnh nằm xấp trong trường hợp đốt sống LỒI hoặc nằm nghiêng trong trường hợp đốt sống LỆCH.
Đốt sống Lệch về phía nào thì người bệnh nằm nghiêng phía đó lên trên để thầy thuốc dùng lực thao tác đẩy từ trên xuống hướng trục.
Thao tác: Thầy thuốc xòe rộng bàn tay úp trên lưng người bệnh, dùng hai ngón cái đặt tĩnh tại trọng điểm, đẩy theo hướng từ ngoài vào trong cho đốt sống lồi, hoặc từ trên xuống dưới cho đốt sống lệch.
Khi thao tác thầy thuốc dùng lực từ nhẹ đến nặng xen kẽ nhịp nhàng , không nén nặng liên tục.
– NÉN NÂNG:
Tư thế: Theo quy định trong tư thế, người bệnh nằm xấp hoặc ngồi tùy theo vị trí khu trú của trọng điểm.
Thao tác: Dùng một bàn tay để nén xuống, kết hợp với tay kia thao tác nâng chân hoặc tay người bệnh trong cùng một lúc, áp dụng cho hình thái đốt sống LIÊN LỒI.
– NÉN KÉO:
Tư thế: Đã quy định tư thế nén kéo cho người bệnh và thầy thuốc.
Thao tác: Thầy thuốc dùng một ngón tay cho đốt sống LỆCH và cả bàn tay cho hình thái đốt sống LIÊN LỆCH, thao tác theo quy định trong tư thế nén kéo.
2- Trong phương thức Sóng
Thủ thuật ĐẨY còn phối hợp với các thủ thuật thuộc phương thức sóng như thủ thuật XOAY, BỈ, LÁCH, RUNG để tạo cho trọng điểm có một sóng cảm giác thích hợp nhất để cơ thể tự điều chỉnh, giải tỏa hình thái lớp cơ bị rối loạn.
E. GIỚI HẠN: Không được dùng thủ thuật ĐẨY cho vùng cổ (từ C1 đến C7), vùng lưng trên (từ D1 đến D7) và xương cụt, mà chỉ được phối hợp với thủ thuật XOAY và BỈ – nghĩa là XOAY và BỈ với một lực thích hợp theo quy định.
F. TÓM TẮT: Thủ thuật ĐẨY thuộc phương thức NÉN thường phối hợp với các thủ thuật thuộc phương thức SÓNG để trị bệnh. Khi thao tác phải tuân thủ các nguyên tắc của phương pháp Tác động Cột sống.
II.2 THỦ THUẬT XOAY
A. ĐẠI CƯƠNG: Thủ thuật XOAY là một trong những thủ thuật trị bệnh theo phương thức SÓNG được phương pháp Tác động Cột sống quy định ứng dụng cụ thể với những loại trọng điểm có hình thái đốt sống LỒI, LỒI LỆCH và LỆCH, và hình thái lớp cơ CO DÀY, CO MỎNG, MỀM DÀY và MỀM MỎNG.
Mục đích của thủ thật XOAY là dùng lực tác động tạo cho người bệnh có một cảm giác đau thích hợp tại trọng điểm – nghĩa là ban đầu đau nhiều, rồi đau vừa, cuối cùng hết đau – để cơ thể người bệnh tự điều chỉnh, điều hòa thân nhiệt và giải tỏa các hình thái của trọng điểm, phục hồi lại sự cân bằng cột sống để trị bệnh.
B. HÌNH THỨC: Hình thức của thủ thuật XOAY là dùng phần mềm ở đầu ngón tay cái hoặc ngón tay giữa, đặt tĩnh tại trọng điểm để thao tác bằng một lực thích hợp theo trình tự:
1. Xoay vòng tròn ở trên lớp cơ bệnh lí theo chiều kim đồng hồ đối với những trường hợp trọng điểm khu trú ở phần dưới đầu gai sống lệch phải và phần trên đầu gai sống lệch trái.
2. Xoay vòng tròn ở trên lớp cơ bệnh lí ngược chiều kim đồng hồ đối với những trường hợp trọng điểm khu trú ở phần dưới đầu gai sống lệch trái và phần trên đầu gai sống lệch phải.
3. Xoay vòng tròn trên lớp cơ bệnh lí không quy định chiều xoay đối với những trường hợp trọng điểm khu trú ở đầu gai sống không phân biệt ở phần trên hay phần dưới và ở điểm đối động
C. THAO TÁC: Những quy định trên đây ứng dụng cụ thể với những Loại và Thể của trọng điểm thao tác như sau:
a) Thao tác ở một diện hẹp đối với những trường hợp ở thể Hẹp.
b) Thao tác ở một diện rộng đối với những trường hợp ở thể Rộng hoặc Lớn.
c) Thao tác dùng một lực nhẹ đối với những trường hợp trọng điểm khu trú ở lớp cơ ngoài.
d) Thao tác dùng một lực trung bình đối với những trường hợp trọng điểm khu trú ở lớp cơ giữa.
e) Thao tác dùng một lực nặng đối với những trường hợp trọng điểm khu trú ở lớp cơ trong.
D. THỦ THUẬT: Khi dùng thủ thuật XOAY thao tác trị bệnh cần phối hợp thủ thuật ĐẨY với lực từ tối thiểu đến tối đa theo quy định của nguyên tắc định lực, phối hợp với thủ thuật LÁCH khi trọng điểm đã thay đổi.
E. GIỚI HẠN
1. Thủ thuật XOAY được áp dụng rộng rãi với tất cả các khu vực khác nhau trên hệ cột sống (theo quy định của nguyên tắc định lực) từ vùng cổ đến xương cụt.
2. Thủ thật XOAY không có giá trị đối với những trường hợp hình thái của trọng điểm di động như các loại Xơ và Sợi hoặc loại không di động như các loại dính cứng.
F. TÓM TẮT
1. Thủ thuật XOAY là một thủ thuật chủ yếu để giải tỏa lớp cơ bệnh lí có hình thái CO MỀM không di động.
2. Khi thao tác cần áp dụng các tư thế thích hợp và phải tuân thủ triệt để các nguyên tắc trị bệnh đã quy định.
II.3 THỦ THUẬT BẬT
A. ĐẠI CƯƠNG: Thủ thuật bật là một trong những thủ thuật trị bệnh theo phương thức sóng.
Phương pháp trị bệnh quy đinh thủ thuật bật ứng dụng cụ thể với những loại trọng điểm có hình thái lớp cơ bệnh lí XƠ và SỢI để cơ thể người bệnh tự điều chỉnh giải tỏa các hình thái của trọng điểm và điều hòa thân nhiệt, phục hồi lại sự cân bằng đốt sống để trị bệnh.
1) Mục đích của thủ thuật này là dùng thao tác trị bệnh tạo cho người bệnh có cảm giác đau nẩy người và đột ngột đối với những trường hợp lớp cơ bệnh lí có hình thái SỢI tròn hoặc dẹt.
2) Tạo cho người bệnh có cảm giác đau thích hợp với những trường hợp lớp cơ bệnh lí có hình thái Xơ tròn, Xơ dẹt.
B. HÌNH THỨC: Dùng phần mềm của đầu ngón tay cái, ngón giữa hoặc cũng có thể dùng nhiều ngón , bật trượt trên sợi cơ bệnh lí bằng một lực thích hợp để thao tác, trình tự như sau:
C. THAO TÁC:
1. Không kể sợi cơ bệnh lí nằm theo hướng dọc, ngang hay chéo, thầy thuốc dùng một hoặc nhiều ngón tay bật trượt nhanh và mạnh ở trên sợi cơ bệnh lí theo hướng cắt ngang với sợi cơ đối với những trường hợp thuộc Thể và Loại SỢI TRÒN hoặc DẸT.
2. Dùng một ngón tay bật trượt nhẹ và chậm ở trên sợi cơ bệnh lí theo hướng cắt ngang với sợi cơ đối với những trường hợp thuộc Thể và Loại SỢI TRÒN hoặc DẸT
D. THỦ THUẬT: Khi dùng thủ thuật BẬT trị bệnh, cần phải phối hợp với thủ thuật ĐẨY, theo quy định của nguyên tắc định lực mà ứng dụng lực từ tối thiểu tới tối đa.
E. GIỚI HẠN:
a) Thủ thuật BẬT được áp dụng rộng dãi đối với trọng điểm khu trú ở trên hệ cột sống từ vùng cổ đến xương cụt. Tùy theo vị trí khu trú của trọng điểm mà áp dụng theo quy định của nguyên tắc định lực.
b)Thủ thuật BẬT chỉ có giá trị đối với những Thể và những Loại XƠ và SỢI, không có giá trị đối với những hình thái không di động như CO CỨNG, CO MỀM.
F. TÓM TẮT
– Thủ thuật BẬT giữ vai trò chủ yếu về giải tỏa các loại XƠ và SỢI bệnh lí.
– Khi thao tác phải tuân thủ các quy định của nguyên tắc trị bệnh của Phương pháp Tác động cột sống.
II.4 THỦ THUẬT RUNG
A. ĐẠI CƯƠNG: Thủ thuật Rung là một trong những thủ thuật trị bệnh theo phương thức SÓNG, ứng dụng cụ thể với những trọng điểm có hình thái thuộc loại MỀM DÀY, MỀM MỎNG, CO DÀY, CO MỎNG.
Mục đích của thủ thuật này là dùng thao tác trị bệnh tạo cho người bệnh có cảm giác thoải mái, dễ chịu.
Từ những cảm giác này, cơ thể người bệnh có thể tự điều chỉnh, giải tỏa trọng điểm, phục hồi lại sự cân bằng cột sống để trị bệnh.
B. HÌNH THỨC: Hình thức của thủ thuật RUNG là dùng phần mềm ở đầu ngón tay cái hoặc ngón giữa, đặt tĩnh tại trọng điểm, bằng một lực thích hợp rung bàn tay lắc qua lại liên tục, tạo cho ngón tay thủ thuật có sự rung chuyển nhẹ nhàng tại đầu ngón tay đặt trên trọng điểm.
C. THAO TÁC: 1) RUNG MẠNH tức là động bàn tay lắc ngang rộng, áp dụng đối với những trường hợp có trọng điểm thuộc loại CO MỎNG và MỀM MỎNG.
2)RUNG NHẸ tức là động bàn tay lắc ngang hẹp, áp dụng đối với những trường hợp có trọng điểm thuộc loại CO DÀY và MỀM DÀY.
D. THỦ THUẬT: – Khi thao tác trị bệnh bằng thủ thuật RUNG bằng lực nhẹ hay mạnh cũng cần phải phối hợp với thủ thuật ĐẨY – tức là vừa ĐẨY vửa RUNG. Khi thao tác cần theo đúng quy định của nguyên tắc định lực.
– Thủ thuật RUNG được phối hợp với thủ thuật LÁCH khi trọng điểm đã thay đổi, mục đích để xác định trọng điểm mới.
– Thủ thuật RUNG còn kết hợp với thủ thuật BỈ và thủ thuật ĐẨY trong khi thao tác giải tỏa trọng điểm ở lớp cơ trong.
E. GIỚI HẠN: – Thủ thuật RUNG chỉ có giá trị về thao tác giải tỏa hình thái trọng điểm loại MỀM MỎNG, MỀM DÀY và CO MỎNG, CO DÀY.
– Thủ thuật RUNG không có giá trị với những loại CỨNG và XƠ, SỢI.
– Thủ thuật RUNG thích hợp với những trường hợp suy nhược như suy nhược thần kinh, suy nhược cơ thể,…
F. TÓM TẮT
– Thủ thuật RUNG là một thủ thuật tạo cho người bệnh có cảm giác thoải mái, dễ chịu, êm ái và ngọt ngào, được coi là thủ thuật BỔ.
– Khi thao tác trị bệnh cần phải thực hiện đầy đủ các quy định của nguyên tác.
– Khi thao tác cần phải chọn tư thế thích hợp cho người bệnh và thầy thuốc.
II.5 THỦ THUẬT BỈ
A. ĐẠI CƯƠNG: Thủ thuật BỈ là một trong những thủ thuật trị bệnh theo phương thức SÓNG, ứng dụng cụ thể trong những trường hợp khú trú ở lớp cơ trong.
Mục đích của thủ thuật BỈ là khi thao tác trị bệnh tạo cho người bệnh có cảm giác đau thích hợp tại trọng điểm khu trú ở lớp trong. Cảm giác đau thích hợp này có thể nhận biết bằng các hiện tượng UỐN CONG và VẶN cột sống.
Từ những cảm giác trên, cơ thể người bệnh có thể tự điều chỉnh, giải tỏa các hình thái của trọng điểm , phục hồi lại sự cân bằng của cột sống để trị bệnh.
B. HÌNH THỨC: Hình thức của thủ thuật BỈ là dùng phần mềm của đầu ngón tay giữa đặt tĩnh tại trọng điểm để thao tác ấn sâu vào lớp cơ bệnh lí bên trong.
Nếu trọng điểm ở bên phải cột sống thì thầy thuốc dùng ngón tay giữa của bàn tay phải, nếu trọng điểm ở bên trái cột sống thì bác sỹ dùng ngón tay giữa của bàn tay trái để thao tác. Nếu gặp trường hợp trọng điểm ở cả hai bên phải và trái thì thầy thuốc phải dùng cả hai ngón tay giữa mà thao tác SONG CHỈNH tại hai trọng điểm bên phải và bên trái của đốt sống.
C. THAO TÁC: – Ngón tay thủ thuật lúc nào cũng phải đặt sát với gai sống, ấn cho lớp cơ bệnh lí miết vào gai sống và lăn ngửa ngón tay, vừa lăn vừa miết theo hướng vòng tròn; lúc đầu đưa lực từ ngoài hướng trục và tiếp theo đưa lực từ trong bỉ ra ngoài.
-Tùy theo trọng điểm khu trú ở lớp cơ giữa hay lớp cơ trong để dùng lực nặng vừa hay nặng để lực thấu tới trọng điểm, nhưng vẫn phải tuân thủ các quy định của nguyên tắc định lực và các nguyên tắc trị bệnh của Phương pháp.
D. THỦ THUẬT: – Thủ thuật BỈ phối hợp với thủ thuật ĐẨY bằng một lực thích hợp từ trong bỉ ra ngoài.
– Phối hợp với thủ thuật RUNG để tạo cho trọng điểm có một cảm giác đau nhưng cảm thấy đau thành sóng lắn tăn, nhẹ nhàng. Tránh cho người bệnh có một cảm giác đau cứng đờ.
– Phối hợp với thủ thuật LÁCH khi thấy hình thái của trọng điểm đã thay đổi để kịp thời xác định trọng điểm mới, tiếp tục thao tác trị bệnh.
E. GIỚI HẠN: – Thủ thuật BỈ áp dụng đơn chỉnh ở những trường hợp đốt sống bị LÕM LỆCH có trọng điểm khu trú ở một phía bên phải hoặc trái của đốt sống.
– Thủ thuật BỈ áp dụng SONG CHỈNH ở những trường hợp đốt sống LÕM có trọng điểm khu trú ở cả bên phải và trái của đốt sống.
– Thủ thuật BỈ chỉ áp dụng với những trường hợp đốt sống LÕM hoặc LỆCH LÕM, và lớp cơ bệnh lý CO, MỀM, DÀY, MỎNG, không áp dụng được với những trường hợp XƠ, SỢI.
F. TÓM TẮT
– Thủ thuật BỈ được áp dụng cụ thể với những loại cơ co MỀM, DÀY, MỎNG ở trên các đốt sống LÕM, LỆCH LÕM.
– Thủ thuật BỈ không ứng dụng trên các loại XƠ, SỢI và các đốt sống LỒI, LỆCH và LỒI LỆCH.
– Khi thao tác phải tuân thủ theo các quy định của các nguyên tắc và các phương thức của Phương pháp.
II.6 THỦ THUẬT LÁCH
Thủ thuật LÁCH không có hình thức riêng biệt mà khi thao tác trị bệnh bằng các thủ thuật khác ứng dụng phương thức SÓNG, thầy thuốc chú ý lần đầu ngón tay thủ thuật lách rộng ra các bờ cao của lớp cơ bệnh lí, chẳng hạn như trong khi ứng dụng thủ thuật XOAY, BẬT, RUNG, BỈ, hoặc khi ứng dụng thủ thuật ĐẨY, thuộc phương thức NÉN.
Mục đích của thủ thuật LÁCH là luôn luôn theo dõi hình thái của trọng điểm trong khi thao tác trị bệnh để kịp thời xác định trọng điểm mới.
Khi thao tác trị bệnh với các thủ thuật thích hợp, có khi chỉ vài giây đồng hồ là hình thái trọng điểm đã thay đổi bởi khả năng tự điều chỉnh của cơ thể đã giải tỏa trọng điểm – tức ổ rối loạn có thay đổi. Tại trọng điểm người bệnh có thể cảm thấy đau nhiều, khi thao tác bớt đau và hết.
Nhưng trọng điểm bao giờ cũng khu trú ở một điểm rất nhỏ. Khi điểm nhỏ này đã tan đi thì xung quanh hình thành một bờ cao, tại đó có điểm cơ co nhất và cảm giác đau nhất. Điểm đau mới này được gọi là trọng điểm mới.
Vì vậy thủ thuật LÁCH giữ một vai trò quan trọng để thực hiện được các yêu cầu trên vì qua thao tác này mà thầy thuốc nhận biết được sự thay đổi tức thời tại trọng điểm và xác định được trọng điểm mới để tiếp tục điều trị cho đến khi giải tỏa được ổ rối loạn.
Trân trọng cảm ơn.
ThS – LY Nguyễn Đình Thảo (Thảo Sen Nam)