CÂY BẠCH ĐẬU KHẤU

  • Tên sản phẩm: CÂY BẠCH ĐẬU KHẤU
  • Dòng sản phẩm: demo
  • Số lượng sản phẩm trong kho: 1
  • Giá chưa VAT: 0đ

Xu hướng tìm kiếm: CÂY BẠCH ĐẬU KHẤU

Bạch đậu khấu trị phế khí trệ, tỳ vị hư, ăn uống kém


Theo Đông y, bạch đậu khấu vị cay, tính ấm, vào 2 kinh tỳ, phế, làm tan khí trệ ở phổi, trừ đình tích ở dạ dày, lui màng mờ trong mắt, thông ợ ngược, ngừng nôn mửa, trừ sốt rét, giải độc rượu.

 CÂY BẠCH ĐẬU KHẤU
 
Đậu khấu có tên khoa học là amomum Cardamomum L., thuộc họ gừng. Đậu khấu là quả gần chín phơi hay sấy khô của cây bạch đậu khấu. Đậu khấu là một loại cỏ mọc lâu năm, thân rễ có vảy. Từ thân rễ những trục mang lá, mang hoa và quả nhô lên mặt đất. Thân mang lá có thể cao 2 - 3m, lá mọc so le không cuống, phiến lá hình mác dài 23cm, rộng 7,5cm. Quả sắc tro trắng, hình cầu hơi có hình tam giác, bóp dễ vỡ. Trong quả có 3 buồng chứa 9 - 12 hạt sắc vàng nhạt có mùi thơm cay, tê, ngậm vào miệng thấy có khí ấm rất sảng khoái. đậu khấu mọc hoang. Nước ta có trồng đậu khấu. Thường hái ở những cây đã 3 năm, khi quả từ màu xanh chuyển sang màu vàng thì hái về phơi hay sấy khô, loại bỏ cuống, xông diêm sinh cho vỏ trắng ra là được. Khi dùng bóc vỏ lấy hạt.

Theo Đông y, bạch đậu khấu vị cay, tính ấm, vào 2 kinh tỳ, phế, làm tan khí trệ ở phổi, trừ đình tích ở dạ dày, lui màng mờ trong mắt, thông ợ ngược, ngừng nôn mửa, trừ sốt rét, giải độc rượu. Công của nó đều do khí thơm mà sinh ra. Nếu qua lửa sao thì đã giảm nửa công. Nên sắc uống hoặc nghiền nhỏ, đợi các thuốc sắc xong hòa vào uống thì tốt hơn.

Thành phần hóa học: trong đậu khấu có chừng 2,4% tinh dầu. Thành phần chủ yếu của tinh dầu là D.bocneola và D.campho.

Tính chất ấm vị hành khí, trị tào tạp, nôn mửa, ợ chua, không tiêu hóa, bệnh phổi.

Chủ trị: tích khí lạnh, ăn vào nôn ra, làm hạ khí, ăn uống tiêu hóa tốt.

Các danh y đời xưa đã dùng đậu khấu để chữa các bệnh như:

 CÂY BẠCH ĐẬU KHẤU


- Làm tan khí trệ trong phổi, khoan khoái các mô, ăn uống tốt, trừ màng che ở tròng trắng mắt.

- Trị sốt rét, lúc nóng lúc lạnh, ợ nghẹn, giải độc rượu.

- Có người nói bạch đậu khấu với súc sa nhân là một loại khí vị và công dụng không khác, hoặc cùng nhục đậu khấu tuy khác họ mà công dụng như nhau. Nhưng không đúng: súc sa nhân không có công năng trị phế vị có hỏa và phế vị khí hư suy như bạch đậu khấu. Còn nhục đậu khấu chỉ trị trung hạ tiêu không bằng bạch đậu khấu, không có vị sáp lại trị bệnh ở cả tam tiêu.

-Trị ăn vào nôn ra hoặc do lạnh mà nôn

Dạ dày có đờm bị lạnh làm nôn mửa

Trị tỳ hư tròng mắt có màng che

Trị khí trệ ở thượng tiêu

Cuối thu sốt rét, lạnh nhiều nóng ít, nôn mửa, vị yếu, ăn kém

Trị vị lạnh, đau tim, ăn rồi nôn ra

Trị tự nhiên tim đau

Trị trẻ nôn mửa do dạ dày lạnh

Trị tỳ hư ăn vào nôn ra

Phụ nữ sau đẻ hay ợ, nấc

Kiêng kỵ: phàm nôn mửa, phản vị, đau bụng bởi vị hỏa uất, chứng nhiệt thì cấm dùng.

Gửi Bình luận

Please login or register to review